Âm nhạc - CD/DVD
Chiều nay sương khói lên khơi
HÀ ĐÌNH NGUYÊN
Trong những ca khúc đầy tâm trạng hoài hương, mang nỗibuồn man mác như: Làng tôi (Chung Quân), Hướng về Hà Nội (Hoàng Dương), Quê mẹ(Thu Hồ), Làng tôi (Văn Cao), Ngày về (Hoàng Giác)... thì Thuyền viễn xứ củaPhạm Duy dù có buồn nhưng giai điệu khác hẳn: lạ hơn, sang trọng hơn...
Bạn thân của tôi, nhà báo Trần Thanh Bình, có một giọng hát khá tốt cho nêntrong những lúc ngà ngà cuộc bia thường được đề nghị hát giúp vui (không đềnghị... cũng hát), và hầu như lúc nào anh cũng cất lên: “Chiều nay sương khóilên khơi. Thùy dương rũ bến tơi bời. Làn mây hồng pha ráng trời. Sóng Đà Giangthuyền qua xứ người. Thuyền ơi, viễn xứ xa xưa. Một lần qua dạt bến lau thưa.Hò ơi, giọng hát thiên thu. Suối nguồn xa vắng, chiều mưa ngàn về...”(Thuyềnviễn xứ). Giọng hát nghiệp dư của Trần Thanh Bình chỉ cỡ đó, nhưng cũng đủ làmxuyến xao tâm hồn người nghe, nói chi được thưởng thức tiếng hát của những danhca như Thái Thanh, Sĩ Phú.
Bài thơ của một cô gái
Thế nhưng, nhiều người chỉ biết Thuyền viễn xứ là của Phạm Duy chứ chẳng mấy aiđể ý rằng đây là một ca khúc phổ nhạc, dù trên bìa bản nhạc (thời đó, từ đầuthập niên 1940 cho đến 1954 trong toàn quốc, cả Cao Miên, và từ 1954 đến 1975 ởmiền Nam, những bản nhạc được xuất bản dưới hình thức in rời bằng giấy cứng khổlớn in 2 mặt, gấp lại ở giữa), Thuyền viễn xứ được cả hai nhà xuất bản Tinh Hoavà Á Châu ấn hành đều ghi rõ: nhạc: Phạm Duy, thơ: Huyền Chi.

Huyền Chi lúc 18 tuổi
Huyền Chi là bút danh của Hồ Thị Ngọc Bút, sinh năm 1934 tại Từ Sơn (Bắc Ninh),theo gia đình vào Nam từ trước năm 1954. Lúc mới vào Nam (1948-1949), cô ở vớichị gái tại Đà Lạt, sau đó về Sài Gòn (1950) vừa đi học vừa phụ mẹ trông nomsạp vải ở chợ Bến Thành. Bài thơ Thuyền viễn xứ là một trong 22 bài thơ nằmtrong tập thơ Cởi mở của Huyền Chi xuất bản năm 1952, trong thời gian cô sinhhoạt với một nhóm văn nghệ sĩ trẻ và làm thư ký tòa soạn chuyên trách mục thơcho Tạp chí Phụ Nữ của bà Nguyễn Thị Lan Phương. Và đây là nguyên văn bài thơ Thuyền viễn xứ, mà tác giả là một côgái 18 tuổi:
Ra khơi sương khói một chiều/
Thùy dương rũ bến tiêuđiều ven sông
/Lơ thơ rớt nhẹ menlòng/
Mây trời pha ráng lụahồng giăng ngang
/Có thuyền viễn xứ ĐàGiang
/Một lần dạt bến quangàn lau thưa/
Hò ơi! Câu hát ngànxưa
/Ngân lên trong mộtchiều mưa xứ người
/Đường về cố lý xa xôi
/Nhịp sầu lỡ bước,tiếng đời hoang mang
/Sau mùa mưa gió phũphàng/
Bến sông quay lại,hướng làng nẻo xa
/Lệ nhòa như nước sôngĐà/
Mái đầu sương tuyếtlòng già mong con/
Chiều nay trời nhẹxuống hồn
/Bao nhiêu sương khóichập chờn lên khơi/
Hai bờ sông cách biệtrồi/
Tần Yên đã nổi bốntrời đao binh/
Ngàn câu hát buổi quânhành
/Dặm trường vó ngựađăng trình nẻo xưa/
Biết bao thương nhớcho vừa/
Gửi về phương ấy mịtmờ quê hương/
Chiều nay trên bếnmuôn phương
/Có thuyền viễn xứ lênđường... lại đi...
Duyên văn nghệ
Tuy lời thơ có vẻ... cổ phong (vốn là chuẩn mực vào thời đó) nhưng vẫn toát lênmột nỗi buồn man mác. Bố cục bài thơ cũng rất “chắc tay”, hồn thơ tinh tế. Tập thơvừa in xong tại nhà in Sống Chung trên đường Trần Hưng Đạo thì tình cờ HuyềnChi gặp nhạc sĩ Phạm Duy khi ông đến thăm bà Đào (chủ nhà in). Cô ký tặng nhạcsĩ tập thơ Cởi mở. Cũng nghĩ là chút duyên văn nghệ thế thôi, bởi đó là lần gặpgỡ duy nhất giữa hai người. Vậy mà người được tặng tập thơ đã chọn một bài thơlục bát rất... truyền thống trong tập thơ ấy để phổ thành ca khúc. Điều đángnói là nhạc sĩ Phạm Duy đã trổ tài “phù thủy” khiến trong ca khúc phổ thơ củaông, khó ai tìm thấy bóng dáng của thể loại lục bát. Đã vậy, đoạn giữa đượcchuyển qua âm giai trưởng nghe vừa xa vắng, vừa rạo rực mênh mang: “Nhìn về đường cố lý, cố lý xa xôi. Đời nhịpsầu lỡ bước, Bước hoang mang rồi. Quay lại hướng làng, Đà Giang lệ ướt nồng. Mẹgià ngồi im bóng. Mái tuyết sương mong con bạc lòng...”.
Trong quyển Hồi ký Phạm Duy (tập 3, ấn bản 2008), tác giả viết: “Gần hai năm đãtrôi qua kể từ khi tôi bỏ vùng quê vào Hà Nội, rời miền Bắc vào miền
Huyền Chi lập gia đình với giáo sư Trần Phụng Tường vào năm 1954, và theo chồngra Phan Thiết, nơi ông đang dạy Pháp văn ở Trường trung học Phan Bội Châu. Ởđây bà mở hiệu sách Bút Hoa và dạy Anh văn.
Nguyễn Phước Thị Liên, một cựu học sinh của Trường trung học Phan Bội Châu, đã“vẽ lại” chân dung của Huyền Chi như sau: “Huyền Chi là một phụ nữ đẹp, tài sắcvẹn toàn. Cô có nước da trắng khỏe, dáng người cao, gương mặt tươi, miệng cườihiền hậu dễ mến, tà áo dài màu thiên thanh đài các trong những chiều lộng gió,khi thầy cô sánh vai giữa thành phố Phan Thiết, đã làm xao xuyến bao tâm hồn nữsinh lúc bấy giờ...” (Kiến Thức Ngày Nay số 768 tháng 12.2011).
Sau 1975, gia đình bà Huyền Chi chuyển vào Sài Gòn. Bà hiện vẫn còn sống tạiđây, còn chồng bà - ông Trần Phụng Tường mất năm 2010. Trong 7 người con củahai ông bà có 4 người hiện ở Việt
Hà Đình Nguyên
Mùa thu không trở lại
Hẳn trong ký ức nhiều người vẫn còn nhớ nhạc sĩ Phạm Trọng Cầu - “Quả chôm chôm biết hát” ngoại hình râu tóc lởm chởm của ông, và nhất là yêu thích những bài hát của ông:Trường làng tôi, Mùa thu không trở lại…
(Từ) Trường làng tôi...
Năm 1998, người viết được tháp tùng một đoàn gồm: các cô chú trong Ban Liên lạc cựu tù chính trị Côn Đảo, nhà thơ Kiên Giang, nhạc sĩ Phạm Trọng Cầu,nhà văn Đoàn Thạch Biền, nhà thơ Nguyễn Bạch Dương, nghệ sĩ Ngô Đình Long… đithăm gia đình nhà thơ Truy Phong (tác giả trường ca Một thế kỷ, mấy vầnthơ) đang sống ở cù lao Quới Thiện (Vĩnh Long).
Từ SaiGon đi xe về đến Bến đò Vũng Liêm rồi bỏ xe lại, xuống ghe bầuvượt sông Cổ Chiên vào cù lao. Lượt về, vừa bước chân lên bến đò, nhạc sĩ PhạmTrọng Cầu đã kéo tay tôi và anh Đoàn Thạch Biền: “Đến coi chỗ này, chính làngôi trường trong bài hát Trường làng tôi của tao!”. Đó là trường Tiểu học VũngLiêm nằm cách bến đò khoảng trăm mét. Chỉ xa có chừng đó nhưng nhìn anh PhạmTrọng Cầu chống gậy đi khá khó khăn (anh có một chân giả), chúng tôi thật áingại… Đến cổng trường, anh đứng làm mẫu để chúng tôi chụp vài tấm hình. Ngôitrường trước mắt chúng tôi trông khang trang, bề thế chứ không như trong bàihát của anh Cầu, nhưng chúng tôi vẫn đồng thanh hát vang: “Trường làng tôi câyxanh lá vây quanh, muôn chim hót vang lên êm đềm. Trường làng tôi con đê béxinh xinh, len qua đám cây xanh nhẹ lướt… Trường làng tôi hai gian lá đơn sơ,che trên miếng sân vuông mơ màng. Trường làng tôi không giây phút tôi quên nơisống bao kỷ niệm ngày xanh...”.
Trong nhạc Việt, có khá nhiều bài ca nhắc đến ngôi trường cũ nhưng hầunhư chỉ duy nhất bài hát này, nhạc sĩ đã dùng trọn tác phẩm để nói về ngôitrường thời thơ ấu của mình. Một bài hát tuyệt vời.
... (đến) Mùa thu không trở lại
Dịp ấy, Phạm Trọng Cầu còn tiết lộ anh là tác giả ca khúc Mùa thu khôngtrở lại. Tôi cãi, bởi vì trước năm 1975, tôi có tập nhạc 12 bài ca quen thuộctrên đất Pháp (trong đó có ca khúc Mùa thu không trở lại) của tác giả PhạmTrọng. Anh cười xác nhận, sau năm 75, anh mới thêm vào chữ “Cầu” cho tên anhđược đầy đủ như trong giấy khai sinh.
Nhạc sĩ cho biết: anh sinh đúng vào ngày Noel (25.12.1935) tại
Ở Vĩnh Long, anh theo học trường Tiểu học Vũng Liêm và tham gia vào Độituyên truyền xung phong huyện. Năm 1948, Phạm Trọng Cầu trở lại Sài Gòn, thamgia phong trào xuống đường đấu tranh của sinh viên, học sinh. Một thời giansau, ông thoát ly, vào bộ đội (Trung đoàn Cửu Long). Sau đó, ông bị thương phảicưa chân, mẹ ông đã tìm cách đưa ông vào Sài Gòn cứu chữa. Năm 1953, Phạm TrọngCầu thi vào trường Quốc gia âm nhạc và kịch nghệ Sài Gòn, và chàng trai 18tuổi, nhớ về thời thơ ấu cắp sách đã sáng tác ca khúc Trường làng tôi… Tốtnghiệp xong, đến năm 1962 Phạm Trọng Cầu lại thi vào Nhạc viện Paris (Pháp).
Tại Paris, anh đã viết 12 bài ca quen thuộc trên đất Pháp, trongđó có Mùa thu không trở lại… Với ca khúc này, Phạm Trọng Cầu tâmsự: “Dạo ở
Tôi hỏi anh có phải cô ấy tên Thu không mà anh cứ lặp lại câu điệp khúc“Em ra đi mùa thu, mùa thu không trở lại”? Anh trầm ngâm: “Đối với tôi... làmột mối tình xa xưa thời còn trai trẻ. Gặp nàng vào mùa xuân, mùa hạ tình nồngcháy và mùa thu nàng ra đi. Hôm tiễn nàng ra sân bay, tôi trở về nhà phải đingang qua khu vườn
Sau chuyến đi cù lao Quới Thiện về được khoảng 2 tháng thì anh PhạmTrọng Cầu đột ngột qua đời…
(Theo Hà Đình Nguyên)
Mùa xuân đến
MÙA XUÂN ĐẾN
Nhạc và lời:Nguyễn Quốc Đông
Trình bày:Minh Tánh
Thương về Tây Ninh
THƯƠNG VÊ TÂY NINH
Nhạc và lời : Nguyễn Quốc Đông
Trình bày :Hồng Nhung
Tình mênh mang
Tình Mênh Mang
Trương Quang Lộc
Dòng sông trôi đi đâu, đâu biết sông trôi về đâu
Dòng thời gian qua mau đâu biết ai người yêu mình
Dòng đời trôi mênh mang đâu biết ai người mình yêu
Anh mong có một ngày em đến
Trong tình anh muôn ngàn thương nhớ
Mang cho anh tình nồng say đắm, biết yêu em
Dòng sông trôi đi đâu đâu biết sông trôi về đâu
Dòng thời gian qua mau đâu biết ai người yêu mình
Dòng đời trôi mênh mang đâu biết ai người mình yêu
Anh mong có một ngày em đến
Sân nhà anh ngập tràn tia nắng
Trao cho anh thiệp hồng tươi thắm của đôi mình
Biết rằng chuyện tình nào tình chẳng phôi phai
Biết rằng tình là buồn người xa người nhớ
Dẫu lời tình nồng nàn lời nói đầu môi
Bước vào cõi tình sầu nào biết được đâu
Biết rằng chuyện tình nào tình chẳng phôi phai
Biết rằng tình là buồn người xa người nhớ
Dẫu rằng lời nguyện cầu nào chắc được đâu
Anh cầu cho tình mình bên nhau dài lâu
Phạm Đình Chương những con đường âm nhạc

Nhưng có nhiều người thì nghĩ khác. Như nhạc sĩ Anh Bằng, người đã phổ hàng
trăm bài thơ thì cho rằng thơ phổ nhạc là một nét đặc thù của văn nghệ Việt Nam. Trong khi
nói chuyện với tôi ông đã tỏ ra rất trân trọng những bài thơ phổ nhạc của nhạc
sĩ Phạm Đình Chương và cho rằng đó là một nhạc sĩ phổ thơ hya nhất của âm nhạc
Việt nam.
Riêng với tôi, nghe lại những bản nhạc phổ từ thơ của người ca sĩ chủ chốt của
ban hợp ca Thăng Long Hoài Bắc, tôi đã bị lôi cuốn vào một thế giới âm nhạc
tuyệt vời. Từ những bài thơ nổi tiếng, nhạc đã mở ra thành những thế giới riêng
và cất cao lên những cung bậc ngân nga trong tâm não. Thơ Quang Dũng (Đôi mắt
người Sơn Tây) như có phả vào trong nhạc Pham Đình Chương những nỗi niềm sầu xứ
riêng của một người yêu quê hương tha thiết. Thơ Thanh Tâm Tuyền (Lệ đá xanh)
những câu thơ tự do trúc trắc lại trở thành những cung bậc mượt mà và hình như
trong từng nốt nhạc từng lời ca được chọn lọc trong thơ có một điều gì sẻ chia
đồng cảm. Với thi ca, nhạc Phạm Đình Chương là bạn đồng hành.
Và mỗi khi buồn, những bản nhạc tình của Phạm Đình Chương đã làm tôi da diết
hơn nỗi đau và nhức buốt thêm nỗi nhớ. Tha thiết, lãng mạn, như nghe Nửa hồn
thương đau, nghe “Người đi qua đời tôi”, những lời và nhạc quyện vào nhau. Ngân
lên. Réo rắt.
Phạm Đình Chương, người nhạc sĩ tài hoa đã làm phong phú cho gia tài âm nhạc
Việt Nam.
So với các nhạc sĩ nổi tiếng khác số lượng sáng tác của ông không nhiều lắm
nhưng đã có rất nhiều ca khúc đã đi vào cõi bất tử. Nhạc của ông còn có tuổi
thọ hơn ông nhiều lần. Những ca khúc đã nổi tiếng đến nỗi thành quen thuộc
trong đời sống hàng ngày của người Việt Nam.
Riêng với cá nhân tôi, mỗi lần nghe lại những bản nhạc như “Sáng Rừng” hay
trường ca “Hội Trùng Dương”, tôi lại bồi hồi nhớ đến những ngày xưa lúc mới lên
trung học. Ở ngôi trường mà trước đây là chỗ nuôi ngựa của quân đội Nhật sau
sửa chữa thành Trung Tâm Học Liệu, nơi chúng tôi đã học hát những bài này với
thầy Chung Quân ròng rã những năm đệ thất, đệ lục. Những bài hát đã tạo ấn
tượng rất mạnh cho tôi từ ngôn ngữ đến âm điệu. Những bài hát làm tôi yêu mến
hơn quê hương đất nước tôi. Tôi nhớ cả lớp tôi chia làm hai bè và những câu hát
cứ đuổi theo nhau như lượn sóng ào ạt cuồn cuộn: “… Sóng muôn triền tới sóng xô
về tới như muôn tình mới vươn sức người. Bừng giữa đời…” Chúng tôi cứ thế mà
hào hứng hát trong cái kích động vô cùng của chuyển khúc nhạc… Thầy Chung Quân,
tác giả của ca khúc nổi tiếng “Làng tôi“ thì không hết lời giảng giải với bọn
học trò chúng tôi những nét hay ý đẹp của những ca khúc này. Thành ra, tuy tôi
chưa gặp mặt bao giờ nhưng lại vô cùng quen thuộc khi nghe nhắc tới tên tuổi
của nhà nhạc sĩ Phạm Đình Chương…Hình như trong tiềm thức của tôi, đã có một
vóc dáng nhạc sĩ cực kỳ to lớn. Những lờica hằn trong tâm thức và một lúc nào,
có chất xúc tác, bùng vỡ cảm xúc như trôi theo suối, theo sông…
Rồi thời gian trôi, tôi lớn lên, vào đại học rồi đi lính, đi tù, rồi vượt biên,
rồi lưu lạc xứ người, mãi thời gian khoảng thập niên 80 tôi mới gặp lại ông. Và
hình như, cái vóc dáng ngày xưa mà tôi tưởng tượng dường như không sai biệt
mấy. Trong một buổi họp mặt văn nghệ ở quán Doanh Doanh của anh chị Thái Tú
Hạp, ông hát bản nhạc mới sáng tác phổ từ thơ Du Tử Lê “Đêm nhớ trăng Sài Gòn“
và bản “Hạt bụi nào bay qua “ từ thơ Thái Tú Hạp. Dáng ông cao gầy, nói chuyện
có duyên với giọng thật đặc biệt Bắc Kỳ Sơn Tây, mặc dù lúc đó hơi men đã ngấm.
Ông hát rất truyền cảm và tạo được những phút giây lắng đọng trước khi chấm dứt
làm người nghe ngưng một giây sững sờ trước khi vỗ tay vang dội… Trong tiếng
nhạc, có tâm sự tỏ bầy. Trong lời ca, có mênh mông những khung trời quá khứ…
Theo tài liệu của nhạc sĩ Phạm Thành là con ruột ông thì nhạc sĩ Phạm Đình
Chương sinh ngày 14 tháng 11 năm 1929 tại Bạch Mai. Quê nội ông ở Hà Nội và quê
ngoại ở Sơn Tây. Gia đình ông là một gia đình nghệ sĩ, thân phụ ông đánh đàn
tranh rất tuyệt trong khi thân mẫu ông chơi đàn bầu cũng rất hay. Thành ra nhạc
sĩ Lê Trọng Nguyễn, tác giả Nắng Chiều đã rất hữu lý khi phát biểu rằng nhạc
của Phạm Đình Chương đã biểu lộ được những tinh túy của âm điệu ngũ cung. Sống
trong một gia đình nghệ sĩ “nòi “ như vậy thì hấp thụ được những tinh hoa của
nguồn nhạc dân tộc tính là chuyện dĩ nhiên. .
Ông bắt đầu học nhạc lý từ khi còn thơ ấu. Lúc mười bẩy tuổi ông đã sáng tác
bản nhạc đầu tay “Ra đi khi trời vừa sáng“ với lời nhạc trong sáng nhịp điệu
vui tươi tới bây giờ vẫn còn nhiều người hát. Thí dụ như Đài phát thanh Little
Sài Gòn ở Orange County đã dùng làm bản nhạc khởi đầu chương trình “Chào bình
minh“ mỗi buổi sáng.
Thời kháng chiến chống Pháp sau năm 1945, cũng như những chàng trai Hà Nội yêu
nước, ông gia nhập vào các đoàn văn nghệ lưu động của Liên khu 4 và Liên khu 3.
Ông đi đến nhiều nơi: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa
thiên... Thời kỳ này, ông sáng tác những bài hát kích động tinh thần yêu nước,
chấp nhận những khó khăn, có bóng dáng của chiến tranh nhưng không hận thù chém
giết. Như ca khúc “Được Mùa“ âm điệu vui tươi, chứa chan tình cảm với lòng tin
tưởng vào tương lai. Trong khi những bản nhạc cùng thời sáng tác như “Ngày Mùa“
của Văn Cao, “Gánh Lúa “ của Phạm Duy, hay “Dân Ca Lúa Vàng“ của Mặc Thy, thì
lời ca tiếng nhạc có bóng dáng của chém giết chiến tranh hơn.
Nhà văn Mai Thảo khi còn sinh tiền hay thường kể về những ngày tháng đầy hào
hứng của tuổi trẻ của những thanh niên lớp tuổi ông và Phạm Đình Chương, vai
đeo bạc đà tay bút tay đàn rộn rã với sinh hoạt văn nghệ thời kỳ toàn dân chống
giặc. Nhà văn Tạ Tỵ trong hồi ký viết về các văn nghệ sĩ mà ông quen biết cũng
nhắc đến quán cà phê của gia đình Ban Hợp Ca Thăng Long thuở ấy. Vừa lưu diễn
vừa sáng tác, tay đàn tay bút, từ đồng nội đến núi rừng, sinh lực tuổi trẻ và tâm
tình yêu nước đã thể hiện trong từng ca khúc của Phạm Đình Chương.
Sau chính sách Cải cách Ruộng Đất ,ông và gia đình trở về thành và vào Sài Gòn sinh sống. Ởđây, ông cùng với anh ruột là nhạc sĩ Hoài Trung, chị ruột là ca sĩ Thái Hằng,
anh rể là nhạc sĩ Phạm Duy, em ruột là ca sĩ Thái Thanh lập thành Ban Hợp ca
Thăng Long. Đôi khi còn tăng cường ca sĩ Khánh Ngọc. Ban hợp ca Thăng Long đã
hoạt động liên tục trong một thời gian dài. Có khi trình diễn ở Hà Nội thì đổi
tên là Ban Hợp Ca Gió Nam với sự góp mặt của nhạc sĩ Nam Tiến (tức Trần Văn
Trạch) Kỷ niệm những ngày lưu diễn này nhạc sĩ Trần Văn Trạch đã nhắc đến và
tâm sự nhiều lần trước khi qua đời và coi như một kỷ niệm đẹp trong đời ca hát
của người nghệ sĩ lão thành này.
Những ngày ở miền Nam
là những ngày sáng tác sung mãn của ông. ‘Ly rượu mừng” bài hát vui tươi tràn
dầy mộng ước, là lời chúc rất nhân bản đã trở thành một bài hát mở đầu cho
những buổi họp mặt của hầu hết mọi người dòng dã mấy chục năm về sau. Hay
“Tiếng dân chài”, theo lời kể của tác giả là một sáng tác từ cảm hứng trên bờ
sông Mã khi mục kích sinh hoạt của những người dân chài lưới.
Thời kỳ này Ban Hợp ca Thăng Long nổi tiếng đến nỗi bìa của giai phẩm xuân “Đời
Mới” của nhà báo kiêm chính khách Trần Văn Ân có hình ban Thăng Long có hai cô
Thái một cô Khánh (Thái Thanh, Thái Hằng, Khánh Ngọc) phải in thêm để có đủ số
lượng bán.
Là linh hồn của Ban Thăng Long, những sáng tác của ông đã góp phần làm rạng rỡ
những thành công vượt bực. Như Sáng Rừng, như Ra Đi Khi Trời Vừa Sáng, như
Tiếng Dân Chài, như Bài Ca Tuổi Trẻ,
Như Anh Đi Chiến Dịch, như Ly Rượu Mừng, … Những bài hát đã thật quen thuộc đến
trở thành một phần đời sống của những người dân ở miền Nam Việt Nam.
Nhưng một gia sản to lớn cuả nhạc sĩ để lại cho âm nhạc Việt Nam là trường ca “Hội Trùng Dương”.
Theo Phạm Thành cho biết thì thời gian sáng tác để hoàn tất là bốn năm dòng dã.
Nhiều người đã xếp hạng “Hội Trùng Dương” ngang hàng với những “Trường Ca Sông
Lô“ của Văn Cao hay “ Hòn Vọng Phu“ của Lê Thương, những nỗi niềm và những khát
vọng của dân tộc được thể hiện. Sáng tác trong thời gian đất nước bị chia đôi,
ông muốn nói lên cái tâm tư Bắc Nam là một và những dòng sông rồi cũng xuôi về
biển Mẹ. Sông Hồng, với thao thiết âm thanh Quan Họ. Sông Hương, với đồng vọng
giọng hò mái đẩy xứ thần kinh. Sông Cửu Long, với tiếng dân ca mộc mạc. Tất cả,
trộn lẫn lại để thành tiếng hát đầy tình tự dân tộc và trong sáng. Thấp thoáng
trong nốt nhạc, lời ca là sự lạc quan của những người tin tưởng vào tương lai
của đất nước.
Năm 1967, ông nhận tổ chức và điều khiển phòng trà Đêm Mầu Hồng (cũng là tên
của một ca khúc mà ông phổ nhạc từ thơ của Thanh Tâm Tuyền). Những sáng tác nổi
danh của ông và sự trình diễn điêu luyện của Ban Hợp Ca Thăng Long đã biến
phòng trà này một chỗ nổi tiếng nhất và là nơi tụ tập của những nghệ sĩ hàng
đầu của đô thành Sài Gòn.
Trong nhạc Phạm Đình Chương, thi ca đóng một vai trò quan yếu. Hình như bắt
nguồn từ sự đồng cảm với thi sĩ, nhạc đã tháp cánh cho thơ vút cao. Những vần
thơ của Đinh Hùng, Hoàng Anh Tuấn, Thanh Tâm Tuyền, Nguyên Sa, Quang Dũng, Trần
dạ Từ, … trước năm 1975 hay Du Tử Lê, Kim Tuấn, Thái Tú Hạp, … sau năm 1975 ở hải
ngoại đã thành những ca khúc có sức lôi cuốn mạnh mẽ và nói lên được tâm tư của
thời đại. Thơ, với chất lãng mạn sẵn có, hợp cùng âm điệu của nhạc để thành
những nhớ lại từ liên tưởng những cuộc tình, những phận người. Để rồi có sự
chia sẻø với suy nghĩ, vớiø ngôn ngữ, với thanh âm, đã mở hướng đi xa đến vời
vợi hơn những cửa ngõ này, những chân trời kia…
Nhạc sĩ Vũ Thành đã có lần nhận xét rằng phổ thơ như Phạm đình Chương từ bài
thơ “Tự Tình Dưới Hoa“ của Đinh Hùng thành “Mộng Dưới Hoa“ là việc hình thành
một “tuyệt tác đáng phục“. Nhạc sĩ khéo léo phổ toàn bộ bài thơ với một ngôn
ngữ óng mượt trữ tình và kỹ thuật chuyển âm tuyệt diệu. Nhất là, chất lãng mạn
được giữ nguyên nếu không nói là tăng thêm bội phần.

Tuyền không phải là việc dễ dàng. Thế mà, với Dạ Tâm Khúc, với Bài Ngợi Ca Tình
Yêu, với Đêm Mầu Hồng, cái ý thơ cảm được nhưng khó diễn tả bằng lời đã được
truyền cảm trọn vẹn. Thơ, đi gần tới hơn đối tượng và bằng nhịp điệu lôi cuốn
người nghe với nghệ thuật riêng của nhịp cầu âm điệu. Không biết thành công này
có phải bắt nguồn từ sự đồng cảm giữa thi sĩ và nhạc sĩ qua mối thâm giao lâu
đời chăng?
Biến cố tháng tư năm 1975 khiến ông phải làm nhân chứng cho một cuộc đổi đời.
Sống ở Saigòn những năm tháng nghẹt thở rồi sau cùng ông và gia đình vượt biển
năm 1979 rồi sang định cư ở xứ người. Đời sống thúc bách của sinh kế không làm
ông ngưng sáng tác.
Tâm sự một người lưu lạc chất ngất nỗi niềm khiến cho ông cảm thấy gần gũi với
những vần thơ của thi sĩ Du Tử Lê. Những bài thơ như “Khi tôi chết hãy mang tôi
ra biển”, ”Đêm, nhớ trăng Sài gòn“, hay “Quê hương là người đó“ được phổ nhạc
trong sự chia sẻ ấy. Quê hương mới đây mà đã cách biệt ngàn trùng. Những không
gian, thời gian đã xa mất hút nhưng sao còn gần gũi. Tâm sự chúng ta đôi khi
khác nhau nhưng vẫn cùng mẫu số. Mẫu số của một thời đại lưu vong.
Có lẽ trong những nhà thơ, Du Tử Lê là người có duyên với các nhạc sĩ nhất cũng
như thi sĩ Đinh Hùng thời trước. Gần một trăm bài thơ được phổ nhạc với rất
nhiều ca khúc gần như “bất tử“ phải là một hiện tượng trong đời sống văn học
Việt Nam.
Nhà văn Mai Thảo đã viết về người bạn tâm giao của mình với dẫn chứng từ những
tài năng âm nhạc khả tín:
“… Trên một tầm cao hơn, thuần túy nhạc lý và nhạc tính hơn, những điểm xuất
sắc của cõi nhạc, nét nhạc Phạm Đình Chương cũng được những kiến thức có thẩm
quyền hết lời khen ngợi. Như một nhận xét tổng quát của nhạc sĩ Nghiêm Phú Phi.
Là đường nét của âm điệu (ligne melodique) cách thế hòa âm, tiết điệu và bố cục
từ khúc, mặt nào ở Phạm Đình Chương cũng cao sang, điêu luyện và thuần phục.
Cao và sang nhưng không khó không xa rất hợp rất gần với tâm hồn đại chúng. Như
một phân tích tóm gọn của nhạc sĩ Lê trọng Nguyễn.
Là Phạm Đình Chương xử dụng ngũ cung tài giỏi, cấu trúc và kỹ thuật nhạc hiện
đại, tiền tiến nhưng vẫn giữ dược âm điệu, yếu tính (essence) và tâm hồn Việt Nam… “
Riêng tôi, qua hơn sáu chục ca khúc cho một khoảng hơn bốn mươi lăm năm sáng
tác, tôi đã nhìn thấy rõ một vóc dáng nhạc sĩ lớn. Là người ngợi ca tình yêu,
với những ca khúc để đời : Mộng Dưới Hoa, Ngợi Ca Tình Yêu, Người Đi Qua Đời
Tôi, Mầu Kỷ Niệm... Là người yêu quê hương, tin tưởng vào tương lai dân tộc,
với Tiếng Dân Chài, với Được Mùa, với trường ca Hội Trùng Dương, … Là người lưu
lạc tha hương, nhớ về chốn cũ nhà xưa, với Mưa Saigòn, Mưa Hà Nội, với Đêm, Nhớ
Trăng Saigòn, với Khi Tôi Chết Hãy Mang Tôi ra Biển, … Là người nhạc sĩ yêu đời
mang nghững bài ca tươi thắm với Sáng Rừng, với Trăng Rừng, với Ra Đi Khi Trời
Vừa Sáng, … Tất cả, thành một vóc dáng âm nhạc đa diện. Ở mặt nào, cũng là đặc
sắc. Ở cõi nào, cũng là khai phá bước chân. Mỗi mỗi, là những hiển lộng nghệ
thuật. , những dụng công tinh vi. Aâm nhạc và đời sống có những bổ túc để thành
một nhất quán cho sáng tác.
Dù nhạc sĩ đã qua đời vào năm 1991, nhưng tuổi thọ của những ca khúc hầu như bất tử sẽ còn dài hơn rất nhiều 62 tuổi hưởng thọ. Đã có những chương trình hát và tưởng niệm cố nhạc sĩ. Đã có những ca khúc được trình bày như một cách thế cảm tạ những công trình mà có người gọi là những bông hoa tô điểm cho đời.
Ngày trước, cụ Tiên Điền Nguyễn Du đã than thở rằng “bất tri tam bách dư niên hậu, thiên hạ thùy nhân khấp Tố Như”. Bây giờ, với những cõi nhạc như Phạm Đình Chương, có lẽ đến vài thế kỷ sau vẫn còn đồng vọng những ca khúc như Hội Trùng Dương hay Mộng Dưới Hoa chăng? Có thể lắm chứ sao không? Đã gần nửa thế kỷ rồi mà lời nhạc vẫn xanh và bóng mát vẫn tỏa cùng trên quê hương mà âm điệu còn vang xa ra trên phần đất mà con dân Việt nam sinh sống trên toàn thế giới !!!